Ngày xửa ngày xưa ở nhà nọ có hai chị em cùng cha nhưng khác mẹ, người chị tên là Tấm còn người em tên là Cám. Hai người họ cũng gần bằng tuổi nhau. Nhưng Tấm là con của người vợ cả, còn Cám chỉ là con của vợ lẽ mà thôi. Mẹ của Tấm thì đã chết từ lúc Tấm còn nhỏ xíu. Vài năm sau cái chết của người vợ cả thì cha của Tấm cũng qua đời. Vì thế mà Tấm phải ở với người dì ghẻ, cũng chính là mẹ của Cám.
Dì ghẻ này là một người vô cùng cay nghiệt. Mụ ta bắt Tấm ngày ngày đều phải làm lụng vất vả luôn canh, Tấm phải chăn trâu, rồi còn phải đi gánh nước, rồi lại thái khoai và vớt bèo. Đến đêm thì phải xay lúa và giã gạo, làm việc luôn tay luôn chân mà vẫn chẳng hết việc.
Bên cạnh đó thì Cám lại được mẹ vô cùng cưng chiều, không chỉ ăn trắng mặc trơn, mà cả ngày chỉ biết quanh quẩn quanh nhà, chả bao giờ phải đụng tay vào bất kì công việc nặng nhọc nào.
Vào một ngày nọ, dì ghẻ liền đem hai cái giỏ đưa cho hai chị em rồi sai ra ngoài đồng bắt ít tôm tép mang về. Mụ hứa hẹn rằng:
– Cứ hễ đứa nào mà bắt mang về đầy giỏ tôm tép thì sẽ được ta thưởng cho cái yếm đỏ!
Đến khi ra đồng, bởi vì Tấm đã quen với việc mò cua bắt ốc nên chỉ hết một buổi là đã bắt được đầy một giỏ nào tôm, nào tép, còn có cả cá nữa. Còn Cám quen thói ăn chơi, ra đến đồng vẫn cứ thủng thỉnh, cứ dạo từ ruộng này đến ruộng nọ, cho đến tận buổi chiều mà nó vẫn chẳng bắt được chút tôm tép nào cả. Nhìn thấy giỏ của Tấm đã đầy, Cám lập tức bảo với chị mình là:
– Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị bị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.
Tấm tin lời Cám nói là thật nên vội vàng lội xuống dưới ao, đi ra chỗ sâu để tắm rửa qua bùn đất bám trên người. Cám thừa cơ mà trút hết giỏ tôm tép của Tấm sang giỏ của mình, sau đó ba chân bốn cẳng chạy về nhà trước tiên. Khi Tấm đã gột rửa sạch sẽ, bước lên trên bờ thì giỏ tôm tép đầy khi nãy đã biến mất, chỉ còn lại một chiếc giỏ không nằm trơ trọi ở nơi đó. Quá đau lòng, Tấm liền ngồi đó ôm mặt khóc nức nở. Khi ấy Bụt đang ngồi ở trên tòa sen, vô tình nghe được tiếng khóc tức tưởi của Tấm nên xuất hiện. Bụt hỏi:
– Tại sao con lại khóc?
Thấy Bụt hỏi chuyện, Tấm cũng thành thành thật thật mà kể lại tất cả mọi chuyện cho Bụt nghe. Sau đó Bụt lại bảo:
– Thôi, bây giờ con nín đi! Thử nhìn giỏ mình xem bên trong còn lại gì không?
Nghe lời, Tấm cầm giỏ của mình lên mà nhòm vào bên trong rồi bảo Bụt:
– Bên trong còn có một con cá bống ạ!
– Giờ con hãy đem cá bống về nhà rồi thả xuống dưới giếng nuôi. Vào mỗi bữa ăn, nếu ăn ba bát thì giờ con chỉ ăn hai, bát còn lại thì hãy đem ra giếng thả cho bống ăn. Mỗi khi con cho bống ăn thì phải gọi thế này:
Bống bống, bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người
Nếu như con không thể gọi đúng những lời như thế thì bống sẽ không lên đâu, con hãy nhớ lấy nhé!
Bống bống, bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người
Nếu như con không thể gọi đúng những lời như thế thì bống sẽ không lên đâu, con hãy nhớ lấy nhé!
Nói đoạn Bụt liền biến mất. Nghe theo lời Bụt dặn, Tấm liền đem cá bống về nhà rồi thả xuống dưới giếng. Kể từ ngày hôm ấy về sau, sau mỗi bữa ăn thì Tấm đều có để dành lại một bát cơm rồi giấu đi để mang ra cho cá bống ăn. Mỗi khi nghe thấy lời Tấm gọi mình thì bống lại bơi lên trên mặt nước rồi đớp hạt cơm mà Tấm thả xuống, ăn xong lại lặn xuống đáy giếng. Người và bống càng ngày càng quen thân nhau hơn, bống cũng càng ngày càng lớn hơn trước.
Tuy nhiên thì Tấm mỗi ngày đều giấu cơm rồi mang ra ngoài giếng sau mỗi bữa ăn thì mụ dì ghẻ cũng đâm nghi, vì vậy mới bảo con gái mình là Cám đi theo sau mà rình lấy. Cám nghe lời mẹ đi rình xem, nấp ở ngay bụi cây cạnh bờ giếng nên Cám có thể nghe rõ ràng tiếng Tấm gọi cá bống lên ăn cơm. Cám cũng cố nhẩm cho thuộc, sau đó lại về kể lại mọi chuyện cho mẹ mình nghe. Tối ấy mụ dì nghẻ dặn Tấm rằng sáng ngày hôm sau phải dậy sớm rồi đi chăn trâu, mụ còn dặn rằng:
– Con ơi! Làng ta bắt đầu lệnh cấm đồng rồi. Ngày mai con dắt trâu đi chăn thì phải đi chăn ở tít đồng xa, chứ chớ có chăn đồng nhà, kẻo làng bắt mất trâu đấy.
Tấm cũng vâng lời mụ dì ghẻ, sáng ngày hôm sau Tấm dắt trâu đi chăn ở tận đồng xa. Còn ở nhà thì mẹ con nhà Cám cầm theo bát cơm ra ngoài giếng, rồi bắt chiếc cách Tấm gọi để gọi bống lên ăn cơm. Khi nghe thấy gọi thì bống lập tức ngoi lên trên mặt nước. Bên thành giếng mẹ con nhà Cám đã chầu chực sẵn, thấy bống ngoi lên thì liền bắt đem vào làm thịt ăn với nhau.
Buổi chiều khi Tấm trở về, sau bữa ăn thì Tấm lại theo lệ thường đem cơm ra giếng để cho bống ăn. Nhưng mà Tấm ở đó gọi mãi mà chẳng thấy bống đâu cả. Tấm vẫn cứ gọi mãi và gọi mãi, sau cùng thì chỉ trông thấy có một cục máu đỏ nổi lên. Thấy vậy thì Tấm biết ngay là bống đã gặp phải sự chẳng lành nên òa lên khóc nức nở. Nghe tiếng Tấm khóc, Bụt xuất hiện và hỏi:
– Tại sao con lại khóc?
Rồi Tấm đem mọi chuyện kể lại đầu đuôi cho Bụt nghe, vì vậy Bụt liền bảo:
– Con bống ấy của con đã bị người ta thịt ăn mất rồi. Thôi, giờ con hãy nín khóc đi. Sau đó trở về nhà và nhặt lấy xương của nó, đi kiếm lấy bốn cái lọ đem bỏ xương vào, rồi con hãy chôn những cái lọ đó xuống dưới chân giường của con.
Nghe lời dặn của Bụt, Tấm quay trở về nhà để tìm xương của bống. Tuy nhiên, dù có tìm thế nào thì vẫn chẳng tìm ra, Tấm tìm từ các xó vườn cho tới các góc sân mà vẫn không thấy. Trong sân có một con gà, trông thấy Tấm thì nó bảo:
– Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc thì ta bới xương cho!
Nghe gà kêu, Tấm vội đi bốc lấy một nắm thóc rồi ném cho gà. Khi đã mổ xong hết thóc thì gà chạy ngay vào trong bếp rồi bới bới một lúc thì tìm được xương của bống. Tấm đem xương nhặt lại rồi bỏ hết vào bốn cái lọ, đem chôn ở bốn chân giường đúng như lời dặn của Bụt.
Không lâu sau đó thì nhà vua cho mở hội liền mấy ngày mấy đêm. Tất cả già trẻ, trai gái ở khắp các làng đều đua nhau đi xem hội. Trên khắp các nẻo đường, đâu đâu cũng thấy những quần áo mớ bảy mớ ba thướt tha, dập dìu kéo nhau tuôn về nơi kinh thành xem hội, đông như nước chảy.
Đương nhiên là hai mẹ con nhà Cám cũng đi sắm sửa những bộ quần áo đẹp để mà đi trẩy hội. Khi thấy Tấm có vẻ muốn đi thì mụ dì ghẻ liền nguýt dài. Rồi mụ đi lấy một đấu thóc đem trộn lẫn cùng một đấu gạo và nói với Tấm là:
– Con ở nhà nhặt cho hết chỗ gạo này, sau đó thích đi đâu thì đi, nhưng đừng có mà bỏ dở đấy, dì về mà không có gạo nấu cơm thì dì đánh cho.
Nói xong thì hai mẹ con liền xúng xính quần áo lên đường đi hội. Còn Tấm phải ở nhà nhặt gạo lẫn trong thóc, nhặt được một lúc cũng chỉ được có chín nhúm, vì nghĩ chẳng biết bao giờ mới xong, quá buồn bã nên Tấm lại ngồi ôm mặt khóc. Đúng lúc ấy thì Bụt lại hiện lên và hỏi:
– Tại sao con lại khóc?
Tấm liền chỉ vào cái thúng mà thưa rằng:
– Dì bắt con phải đem thóc và gạo nhặt riêng ra, sau đó thì mới được đi mà xem hội. Nhưng nếu nhặt xong chỗ này thì hội cũng đã tan từ lâu, làm gì còn gì mà xem nữa.
Bụt lại bảo Tấm:
– Thôi, con hãy nín đi. Bây giờ con đem cái thúng này để ra giữa sân kia, ta sẽ sai đàn chim sẻ tới để nhặt giúp con.
– Nhưng lỡ như chim sẻ lại ăn mất thóc gạo của con thì khi về dì vẫn cứ đánh con.
– Vậy thì con cứ nói với chúng nó là:
Rặt rặt (tức chim sẻ) xuống nhặt cho tao,
Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết.
Nếu con nói như vậy thì bọn chúng sẽ không ăn mất hạt nào của con đâu mà.
Rặt rặt (tức chim sẻ) xuống nhặt cho tao,
Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết.
Nếu con nói như vậy thì bọn chúng sẽ không ăn mất hạt nào của con đâu mà.
Tấm làm đúng như những gì Bụt nói, đột nhiên từ trên không, một đàn chim sẻ lập tức sà xuống cùng nhau nhặt gạo ra một đằng còn thóc ra một nẻo. Đàn chim sẻ chỉ lăng xăng có một lúc thôi mà đã làm xong hết công việc rồi, cũng không làm suy suyển dù chỉ một hạt nào. Tuy nhiên thì khi đàn sẻ đã cất cánh bay đi hết thì Tấm lại ôm mặt khóc nức nở. Và Bụt lại hiện lên hỏi:
– Tại sao con lại khóc nữa thế?
– Quần áo con đang mặc nhìn rách rưới thế này thì người ta sao có thể để con vào bên trong mà xem hội được.
– Giờ con hãy đem đào những chiếc lọ đựng xương bống ngày trước con chôn ở dưới chân giường nên, như vậy thì con sẽ có đủ đồ để mà đi trẩy hội.
Vâng lời Bụt, Tấm đi đào hết các lọ chôn dưới chân giường lên. Khi đào lên lọ thứ nhất thì Tấm lấy được bộ áo mớ ba, cùng một xống lụa, còn cả một chiếc yếm điều, thêm một chiếc khăn nhiễu nữa. Khi đào lên lọ thứ hai thì Tấm lấy thêm được đôi giày thêu, đi vào chân mới thấy vừa như in. Còn đào lên lọ thứ ba thì Tấm thấy có con ngựa nhỏ xíu, tuy nhiên vừa đặt ngựa ra bên ngoài thì đột nhiên nó hí vang rồi biến thành một con ngựa thật. Khi đào lên lọ cuối cùng thì Tấm lấy ra một bộ yên cương đẹp đẽ.
Có được tất cả những món đồ trên thì Tấm vui mừng vô cùng, vội vội vàng vàng đi tắm rửa thay đồ, sau đó thắng yên vào ngựa rồi cưỡi ngựa lên đường lên kinh xem hội. Ngựa phi nước đại, chẳng mấy chốc mà đã tới được kinh đô. Tuy nhiên lúc ngựa phóng qua chỗ lội thì Tấm vô tình làm rơi một chiếc giày dưới chân xuống nước, cũng chẳng kịp mà nhặt lên. Cho đến khi tới chỗ xem hội, Tấm đành phải lấy khăn đem gói chiếc giày còn lại vào, sau đó chen vào trong biển người kia.
Cùng lúc ấy thì đoàn xa giá của nhà vua cũng vừa lúc tiến đến. Nhưng vừa tới nơi này thì hai con voi dẫn đầu đột nhiên cắm ngà xuống dưới đất mà rống lên, làm cách nào cũng không chịu di chuyển tiếp. Vua đành phải sai lính xuống dưới nước tìm thử xem có gì không thì họ mò lên được một chiếc giày thêu mà Tấm lỡ đánh rơi lúc trước. Vua nhìn ngắm chiếc giày không biết chán, trong bụng thầm nghĩ:
– Chà, quả nhiên là một chiếc giày xinh xắn! Chủ nhân của chiếc giày này chắc hẳn phải là một trang tuyệt sắc giai nhân đây!
Nhà vua lập tức ban lệnh rao mời hết tất cả con gái, đàn bà đi xem hội ngày ấy đến để ướm thử, người nào đi vừa thì nhà vua sẽ cưới người đó làm vợ ngay. Đám hội lúc này lại càng thêm náo nhiệt hơn, các bà và các cô đều chen lấn xô đẩy nhau tới chỗ thử giày. Mọi người đều kéo nhau tới chỗ ngôi lầu ngay giữa bãi cỏ mong ướm thử cầu may một chút.
Tuy nhiên, bao nhiêu người tới thử giày đều không người nào đi vừa cả. Trong số những người thử giày cũng có cả mẹ con nhà Cám. Khi hai người họ vừa bước ra khỏi ngôi lầu thì đụng mặt Tấm cũng đang tiến lại. Cám liền mách với mẹ mình:
– Mẹ ơi, nhìn ai như là chị Tấm, hình như cũng tới đây thử giày thì phải!
Nghe con nói vậy thì mụ dì ghẻ lập tức bĩu môi bảo:
– Con nỡm. Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre.
Tuy nhiên thì khi Tấm vừa đặt chân vào giày thì lại vừa như in. Không chỉ vậy, Tấm còn mở chiếc khăn luôn mang bên mình, lấy ra chiếc giày thứ hai và đi vào chân. Hai chiếc giày dưới chân nàng giống nhau y đúc. Vì vậy bọn lính hầu mới vui mừng mà hò reo ầm ĩ. Nhà vua lập tức gọi đám thị nữ tới và rước nàng trở về cung. Nàng bước lên trên kiệu trước những con mắt hằn học cùng ngạc nhiên của mẹ con nhà Cám.
Từ ngày ấy Tấm sống sung sướng ở trong hoàng cung, nhưng nàng chưa bao giờ quên mất ngày giỗ của cha mình cả. Đến ngày, nàng tới xin phép nhà vua cho mình trở lại nhà để sửa soạn cỗ cúng. Mẹ con nhà Cám trông thấy Tấm được sung sướng lại bắt đầu ghen ghét, nuôi hận trong lòng. Khi thấy Tấm trở về thì sự ganh ghét ấy lại cứ bùng cháy trong bụng. Mụ dì ghẻ nghĩ mãi cũng ra một kế rất hay, liền bảo với Tấm rằng:
– Từ trước tới nay con vẫn quen việc trèo cau, vì thế con hãy trèo lên cây rồi xé lấy một buồng xuống cúng cho cha con.
Nghe mụ dì ghẻ nói vậy Tấm chẳng chút nghi ngờ, ngoan ngoãn mà trèo cây để hái cau. Khi nàng đã lên sát buồng, ở bên dưới gốc cây thì mụ dì ghẻ lập tức cầm theo con dao sắc để mà đẵn gốc cây. Khi thấy cây cứ rung chuyển thì Tấm mới gọi vọng xuống:
– Dì đang làm gì ở dưới gốc cây thế?
– Ở gốc cau nhiều kiến quá, dì đang đuổi chúng để tránh chúng nó lại lên đấy mà đốt con.
Tuy nhiên Tấm còn chưa kịp xé lấy buồng cau thì cây cau đã bị mụ dì ghẻ đẵn đổ, nàng liền ngã lộn cổ xuống dưới ao mà chết. Thấy nàng đã chết, mụ dì ghẻ liền đem hết quần áo đẹp của Tấm mặc vào cho Cám, sau đó đưa Cám vào trong cung và nói dối nhà vua là Tấm vô tình rớt xuống ao và chết đuối, nên giờ đưa em gái vào cung thay thế vị trí của chị. Nhà vua nghe bọn họ nói vậy tuy trong lòng không hề vui vẻ nhưng mà vẫn chẳng nói năng gì.
Nói đến nàng Tấm, khi nàng chết đi liền hóa thành con chim vàng anh. Lập tức chim bay về kinh thành, bay vào trong vườn ngự uyển của vua. Chim vàng anh thấy Cám ngồi giặt áo vua ở ngay giếng nước thì bay lại, đậu ở trên cành cây mà hót vọng ra bảo:
– Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.
Hót xong thì chim lại bay vào trong cung, nó đậu ngay bên cửa sổ và hót lên những tiếng rất hay. Hễ thấy vua đi đâu thì chim lại bay cùng tới nơi đó. Vì vua hiện giờ không lúc nào nguôi nỗi nhớ Tấm, lại thấy chim cứ quyến luyến bay theo mình thì liền bảo:
– Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, bay vào tay áo.
Nghe vua nói xong thì chim vàng anh lập tức bay tới đậu lên tay vua, sau đó chui thẳng vào trong ống tay áo. Từ đó trở đi nhà vua hết mực yêu quý vàng anh đến nỗi quên ăn quên ngủ. Nhà vua sai thợ làm chiếc lồng bằng vàng để cho chim ở, ngày cũng như đêm vua chỉ quanh quẩn bên chim, chẳng bao giờ nhớ đến Cám cả.
Thấy vậy nên Cám vội vã trở về nhà kể lại mọi chuyện cho mẹ mình nghe. Mụ dì ghẻ dặn nó bắt chim đem làm thịt rồi ăn đi, rồi cứ kiếm điều mà nói dối vua là được. Khi trở lại hoàng cung, nhân lúc vua bận việc đi vắng, Cám liền đem bắt lấy chim vàng anh rồi thịt ăn, còn đám lông chim thì lại đem vứt ngoài vườn. Lúc trở về, vua thấy mất vàng anh liền hỏi Cám thì Cám lại trả lời là:
– Thiếp đang có mang nên thèm ăn thịt chim quá nên mới trộm phép của bệ hạ mà giết thịt mất rồi.
Nhà vua nghe Cám nói vậy cũng không nói năng gì nữa. Đám lông chim vàng anh mà Cám đem chôn ở ngoài vườn bỗng hóa thành hai cây xoan đào. Nhà vua tới vườn ngự chơi thì thấy cành lá của hai cây xoan đào xòa xuống bên dưới làm thành bóng tròn y như hai chiếc lọng. Vì thấy hai cây xoan đào quá đẹp, lại còn rợp bóng mát nên vua sai lính đem mắc võng ở đó rồi cứ nằm đó hóng mát mãi. Nhưng chỉ cần vua rời khỏi thì cành cây của hai cây xoan đào lại lập tức vươn thẳng lên. Kể từ ngày đó, ngày nào nhà vua cũng tới chỗ hai cây xoan đào, mắc võng rồi nằm hóng mát.
Khi chuyện đến tai Cám, nó lại chạy về nhà mách với mẹ mình. Mụ dì ghẻ lại dặn nó trở về sai thợ đem chặt hạ hai cây xoan đó đi, đem gỗ làm thành khung cửi, nếu vua hỏi thì cứ kiếm điều mà nói dối là được.
Khi trở lại hoàng cung, tiện một ngày kia có gió bão, Cám lập tức kêu thợ tới đốn hạ hai cây xoan đào trong vườn ngự uyển, rồi lấy gỗ làm thành khung cửi cho mình. Thấy cây đã bị chặt, vua lại hỏi Cám, Cám lại đáp rằng:
– Bão làm cho cây bị đổ, thiếp liền sai thợ đem chặt ra đóng khung cửi để mà dệt áo cho người.
Tuy nhiên, khi khung cửi đã đóng xong, lúc Cám ngồi vào dệt thì lại luôn nghe được tiếng chiếc khung cửi ấy chửi rủa mình:
– Cót ca cót két,
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra.
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra.
Nghe vậy thì Cám vô cùng sợ hãi, nó vội vàng về nhà mách với mẹ mình. Mụ dì ghẻ lại sai nó đem khung cửi đốt quách đi, sau đó mang tro tới nơi xa đổ đi cho yên tâm. Trở về cung, Cám nghe lời mẹ đem khung cửi đi đốt. Sau đó nó mang theo tro của chiếc khung cửi ấy đổ ở một bên lề đường rất xa nơi hoàng cung.
Từ đống tro ấy, ngay bên đường liền mọc lên một cây thị rất cao lớn với những cành lá to, sum suê. Khi đến mùa ra quả thì cây thị này chỉ đậu duy nhất một quả mà thôi, nhưng mà mùi thơm của nó thì lại tỏa đi khắp ngả. Có một bà lão bán hàng nước ngay gần đó, ngày nọ đi ngang qua dưới gốc cây thì ngửi thấy mùi rất thơm, khi ngước đầu nhìn lên thì trông thấy cành cao tít có một quả thị đang treo lủng lẳng. Bà lão lập tức giơ chiếc bị của mình lên mà lẩm bẩm rằng:
– Thị ơi, thị rụng bị bà, bà để bà ngửi, chứ bà không ăn.
Khi bà lão nói vừa dứt câu thì quả thị trên cao liền rơi ngay vào trong bị của bà. Bà lão đem thị về nâng niu đặt trong buồng ngủ, cứ thi thoảng lại chạy vào trong để ngắm nghía, hít hà hương thơm của thị.
Hằng ngày bà lão đều đi chợ nên vắng nhà. Đợi cho bà lão đã rời khỏi thì từ trong quả thị ấy liền bước ra một thiếu nữa nhỏ bằng ngón tay, chớp mắt một cái thì đã trở thành nàng Tấm xinh đẹp ngày nào. Tấm rời khỏi vỏ thị rồi đem nhà cửa quét tước, dọn dẹp ngăn nắp, sạch sẽ, sau đó lại đi lấy gạo thổi cơm, ra vườn hái rau về nấu canh cho bà lão hàng nước. Sau khi xong xuôi mọi việc thì Tấm lại hóa thành nhỏ tí rồi chui vào trong vỏ thị như cũ.
Mỗi lần từ chợ trở về thì bà lão hàng nước đều thấy nhà cửa mình tự nhiên lại ngăn nắp và sạch sẽ, cơm nước cũng đã xong xuôi hết cả. Vì thế bà cảm thấy vô cùng ngạc nhiên và lạ lẫm.
Vào một ngày kia, bà hàng nước như thường lệ lại đi chợ, nhưng khi đi đến nửa đường rồi thì bà lại lén trở về nhà và rình ngay chỗ bụi cây phía sau nhà để xem có chuyện gì xảy ra. Như mọi ngày, nàng Tấm lại bước ra từ quả thị, rồi lại làm tất cả những công việc mình thường hay làm.
Bà lão nấp ở bụi cây cứ rón rén mà nhìn vào trong các khe cửa. Bà trông thấy xuất hiện một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp giúp mình làm mọi việc. Lúc này thì bà vui mừng quá, liền bất ngờ xô cửa xông vào trong ôm chặt lấy Tấm, đem vỏ thị kia xé vụn đi. Kể từ ngày đó thì Tấm cùng ở với bà lão hàng nước, cả hai yêu thương nhau như là hai mẹ con ruột thịt vậy. Mỗi ngày Tấm đều giúp bà lão những việc như thổi cơm, nấu nước, rồi lại gói bánh và têm trầu cho bà lão mang đi bán.
Ngày kia khi nhà vua rời khỏi hoàng cung để đi dạo chơi. Trông thấy bên đường có quán nước sạch sẽ nên vua bèn ghé vào trong. Bà lão hàng nước lập tức dâng trầu rót nước cho vua. Khi thấy những miếng trầu được têm cánh phượng đẹp mắt, nhà vua chợt nhận ra những miếng trầu này hoàn toàn giống với cách têm trầu ngày trước của vợ mình, vua lập tức phán:
– Bà lão, trầu này là do ai têm?
Bà lão liền trả lời:
– Trầu này là chính tay con gái của già têm.
– Vậy con gái bà đâu, hãy mau gọi ra đây để ta xem mặt một chút.
Bà lão hàng nước liền vào trong nhà gọi Tấm ra ngoài, khi Tấm xuất hiện, nhà vua lập tức nhận ra nàng chính là vợ của mình, nhưng hình như bây giờ lại có phần trông trẻ đẹp hơn lúc trước. Nhà vua rất vui mừng liền bảo bà lão hàng nước đem đầu đuôi mọi chuyện nói cho mình nghe. Sau đó vua liền sai đám quân hầu mang kiệu tới để rước Tấm trở lại hoàng cung.
Khi Cám trông thấy Tấm về, lại được nhà vua yêu thương còn hơn lúc trước thì nó sợ hãi lắm. Tìm một ngày, Cám liền tới chỗ Tấm mà hỏi:
– Chị Tấm ơi chị Tấm, làm cách nào mà chị lại đẹp hơn thế?
Tấm cũng không trả lời câu hỏi của Cám, chỉ nhẹ nhàng mà hỏi lại:
– Em có muốn được đẹp không thì chị giúp cho!
Nghe Tấm nói vậy thì Cám lập tức đồng ý. Tấm liền sai bọn lính hầu đào một chiếc hố sâu, sau đó bảo Cám chui xuống dưới, còn Tấm thì ở trên chỉ huy đám hầu đổ đầy nước sôi vào đó. Cám chết rồi, Tấm liền sai người đem xác của Cám làm thành mắm, sau đó đem để vào trong chĩnh và kêu người mang tới cho mụ dì ghẻ ở nhà, nói đó là quà mà con gái mụ ta gửi người tới biếu.
Mụ dì ghẻ thấy vậy thì cứ ngỡ là thật nên đem mắm ra dùng, ngày nào mụ cũng ăn rồi tấm tắc khen mắm ngon. Có một con quạ từ đâu bay tới, đậu ở trên nóc nhà rồi kêu lên:
– Ngon ngỏn ngòn ngon! Mẹ ăn thịt con, còn không xin miếng?
Nghe quạ kêu trên nóc nhà thì mụ dì ghẻ giận lắm, mụ ta mắng chửi ầm ĩ, sau đó đem sào tới đuổi quạ đi. Tuy nhiên, khi mụ đã ăn gần hết chĩnh mắm ấy, mụ nhòm vào chĩnh thì thấy chiếc đầu lâu của con mình nằm ngay dưới đáy chĩnh, mụ lập tức lăn đùng ra chết tươi.