Truyện cổ tích - Cậu bé thông minh


Ngày xửa ngày xưa ở nước ta có một ông vua nọ, nhà vua lệnh cho một viên quan của mình đi dò la ở khắp trong nước xem có người nào tài giỏi hay không. Và viên quan ấy đã phải đi tới rất nhiều nơi, đi đến nơi nào thì quan cũng đưa ra hàng loạt câu đố vô cùng oái oăm nhằm thu hút sự chú ý của mọi người. Tuy nhiên thì mất rất nhiều thời gian cùng công sức nhưng mà quan vẫn chưa thể tìm ra được người nào thực sự là lỗi lạc cả.
Vào một ngày nọ khi quan đi ngang qua một cánh đồng ở làng kia, vô tình trông thấy hai cha con nhà nào đó đang cùng nhau làm ruộng, người cha thì đánh trâu cày phía trước, còn người con thì chạy phía sau để đập đất. Vì thế quan liền dừng ngựa lại mà hỏi:
– Ông lão ơi! Trâu kia của lão một ngày cày được bao nhiêu đường thế?
Người cha khi nghe hỏi thì đứng ngẩn ra một chỗ vẫn chưa biết phải trả lời sao thì thằng con tầm bảy đến tám tuổi đã nhanh miệng mà hỏi vặn quan rằng:
– Cho hỏi ông câu này trước nhé. Nếu như mà ông trả lời được con ngựa kia của ông một ngày đi được bao nhiêu bước, lúc đó tôi sẽ nói cho ông biết việc trâu nhà tôi một ngày cày được tất cả là bao nhiêu đường.
Khi quan nghe được cậu bé kia hỏi vặn mình như vậy thì chỉ biết há hốc mồm, quan vô cùng sửng sốt nên chẳng biết phải đáp lại ra sao cho ổn cả. Quan lại thầm nghĩ bụng rằng cậu bé kia nhất định là một nhân tài, còn phải đi đâu xa xôi mà tìm kiếm nữa cho mất công mất sức ra. Nghĩ vậy nên quan lập tức hỏi rõ họ tên cũng như quê quán làng xã của cả hai cha con, sau đó thì cưỡi ngựa phi nước đại trở lại kinh thành để bẩm báo cho nhà vua biết.
Khi nghe viên quan kia tâu lại ngọn ngành mọi chuyện thì nhà vua mừng lắm. Tuy nhiên vì muốn chính xác mọi sự nên vua liền sai quan ban cho làng kia ba thúng gạo nếp cùng ba con trâu đực, rồi hạ lệnh yêu cầu làng phải nuôi sao cho từ ba con trâu ấy lại đẻ thành chín con trâu con khác, hẹn cho đến năm sau phải đem đủ số lượng đến nộp, nếu như không nộp được thì người cả làng ấy sẽ phải chịu tội.
Dân trong làng khi biết lệnh vua ban thì tất cả đều tưng hửng, lo lắng vô cùng, họ cũng chẳng hiểu rõ chuyện này là thế nào cả. Vì vậy mà làng mở biết bao nhiêu cuộc họp, rồi lại có không biết bao nhiêu những bàn tán này nọ, nhưng cuối cùng thì họ vẫn chẳng nghĩ được cách nào tốt nhất để mà giải quyết tình huống khó khăn này cả.
Rồi từ trên xuống dưới, từ người già cho đến trẻ nhỏ đều mặc định đây chính là một cái tai vạ không hơn không kém. Vài ngày sau thì chuyện cũng đến tai của em bé là con của người thợ cày ngày trước. Em liền nói với cha mình rằng:
– Mấy khi mà làng mình lại được vua ban lộc cho, cha hãy đi thưa với làng đem hai con trâu đi ngả thịt, đồ lấy hai thúng gạo nếp cho cả làng cùng nhau ăn một bữa cho sướng cái miệng đi. Còn lại một thúng gạo nếp cùng một con trâu thì cha hãy xin làng để làm phí tổn cho cha con ta vào kinh để mà lo liệu mọi việc.
Người cha nghe con mình nói cũng hết hồn:
– Đã thịt ra ăn rồi thì lo liệu kiểu gì được nữa? Mày đừng làm dại khéo bay đầu con ơi!
Tuy nhiên thì đứa con vẫn cứ quả quyết bảo cha:
– Cha cứ để kệ con lo liệu cho, kiểu gì cũng sẽ xong xuôi hết cả.
Không cản được con nên người cha đành phải tìm đến đình làng để mà trình bày tất cả mọi chuyện cho cả làng nghe. Khi mọi người trong làng nghe được người cha bảo vậy thì vẫn còn nửa tin nửa ngờ, vì thế mới bắt cả hai cha con nhà này viết giấy để cam đoan. Sau đó mới dám cho ngả trâu ra và đánh chén với nhau.
Vài ngày sau thì hai cha con nhà nọ mới khăn gói mà tìm đường đi lên kinh thành. Khi đến trước hoàng cung, thì đứa con mới bảo cha mình đứng đợi ở bên ngoài, còn mình lại nhân lúc đám lính canh cửa vô ý mà lẻn vào trong sân rồng mà khóc um hết cả lên. Nhà vua nghe tiếng khóc lập tức kêu lính ra và điệu vào trong rồi phán hỏi rằng:
– Thằng bé kia sao lại tới nơi này mà khóc lóc om somg thế? Mày có việc gì à?
– Muôn tâu đức vua, – Em bé giả vờ đáp lại – mẹ con đã chết từ sớm, nhưng cha lại chả chịu đẻ cho con một đứa em để cùng chơi với con cho có bạn, vì thế nên con mới khóc. Mong đức vua hãy lệnh cho cha con để con còn được nhờ.
Nghe đứa bé nói thì nhà vua cùng tất cả những triều thần ở đó đều phải bật cười. Nhà vua lập tức bảo:
– Nếu mày muốn có đứa em để chơi cùng mày thì phải đi kiếm cho bố mày bà vợ khác cơ, chứ bố mày giống đực thì sao mà đẻ em cho mày được!
Nghe vua phán xong em bé cũng tươi tỉnh hẳn lên:



– Vậy sao làng chúng con lại nhận được lệnh vua bắt phải nuôi những ba con trâu đực để cho chúng đẻ thành chín con nộp lại ạ? Giống đực làm sao đẻ được chứ?
Nhà vua mới cười phán:
– Ta chỉ thử chúng mày thôi! Thế cả làng chúng mày lại không biết đường đem trâu với cả gạo nếp ra mà ngả thịt ăn với nhau à?
– Muôn tâu đức vua, cả làng con khi nhận trâu cùng gạo nếp thì biết đấy là lộc mà vua ban cho nên làm cỗ và ăn mừng cùng nhau rồi.
Đến lúc này thì nhà vua cùng với triều thần cũng phải chịu thằng bé đúng là thông minh và lỗi lạc thật. Tuy là vậy nhưng mà nhà vua thì vẫn muốn được thử thêm nữa. Sau ngày hôm ấy, lúc hai cha con nhà kia đang dùng cơm tại nhà công quán thì đột nhiên sứ của nhà vua tới, đem theo một con chim sẻ rồi lệnh cho họ phải làm thành ba cỗ thức ăn từ con chim ấy. Em bé lập tức bảo cha cho mình mượn một chiếc kim khâu, sau đó đưa lại cho vị sứ kia và nói:
– Ông đem cái này cầm về tâu vua xin rèn thành con dao sắc để tôi dùng xẻ thịt con chim kia.
Khi vua nghe sứ về thưa lại thì mới phục tài trí của em bé. Nhà vua sai người tới đón cả hai cha con cùng vào trong cung rồi ban thưởng vô cùng hậu.
Hồi bấy giờ ở một nước láng giềng, lúc nào cũng lăm le để mà xâm chiếm bờ cõi nước ta. Họ sai sứ sang nước ta dò la để xem bên nước mình có nhân tài không. Sứ giả đem một vỏ ốc vặn dài, hai đầu thì rỗng sang, rồi đố xem có ai có thể xâu được một sợ chỉ mảnh thông qua đường ruột ốc hay không.
Khi sứ thần nước láng giềng trình bày lại chi tiết cuộc đi sứ này thì nhà vua cùng quan lại trong triều liền đưa mắt mà nhìn nhau. Chẳng có ai có thể đáp lại câu đố vô cùng oái oăm này, nhưng nếu không trả lời thì chẳng phải là đang tỏ ra mình thua kém, rồi nhận rằng mình lép vế hơn so với nước láng giềng kia sao. Vì vậy nên tất cả các quan đại thần trong triều đều vò đầu vắt óc ra mà suy nghĩ đáp án.
Có người thử lấy miệng hút hy vọng sợi chỉ có thể lọt qua được, còn có người lại đem sáp bôi lên sợi chỉ để cho nó cứng hơn cho dễ xâu… tuy nhiên thì tất cả những cách họ nghĩ ra đều không có tác dụng. Tất cả các quan trạng cùng các nhà thông thái đều được nhà vua triệu vào cung để giải câu đố, nhưng ai ai cũng lắc đầu chịu bó tay. Sau cùng thì triều đình cũng phải nghĩ cách mời vị sứ thần kia nghỉ tạm lại công quán vài ngày, kéo dài thời gian để đi tìm em bé thông minh hỏi chuyện.
Một viên quan được lệnh vua đem theo chỉ dụ tới tận nhà tìm em bé thông minh kia. Khi quan đến thì đúng lúc em bé đang bận đùa nghịch cùng bạn bè ở phía sau nhà. Khi nghe viên quan này trình bày lại toàn bộ mọi chuyện cùng với câu đố oái oăm của vị sứ thần ngoại quốc kia thì em bé cũng chẳng đáp lại, chỉ hát một câu:
“Tang tính tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng,
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”
Sau đó bảo với viên quan kia:



– Chẳng cần tôi vào triều đâu. Quan cứ về làm theo cách tôi nói chắc chắn là xâu được ngay thôi!
Viên quan ấy vô cùng sung sướng, lập tức cưỡi ngựa về cung gấp để tâu cho vua biết. Khi nhà vua cùng tất cả triều thần nghe được chuyện này thì ai ai cũng như mở cờ trong bụng vậy. Quả nhiên là con kiến càng đã xâu sợi chỉ mảnh xuyên qua được ruột con ốc vặn kia hộ nhà vua trước sự kính phục của vị sứ thần của nước láng giềng.
Sau sự việc đó thì nhà vua lập tức phong em bé thông minh kia thành trạng nguyên. Còn cho người xây dinh thự ngay bên hoàng cung, đón em bé cùng cha mình tới ở để tiện đường hỏi han mọi chuyện.

Previous Post Next Post